Khái quát Dự_Thân_vương

Năm Sùng Đức nguyên niên (1636), con trai thứ mười lăm của Nỗ Nhĩ Cáp XíchĐa Đạc được Thanh Thái Tông Hoàng Thái Cực phong làm Dự Thân vương.

Con trai ông là Đa Ni tập tước, cải thành Tín Thân vương (信親王), năm 1652 bị giáng xuống Tín Quận vương (信郡王). Trong những năm Càn Long, phục lại hào vị Dự Thân vương, cho phép thế tập võng thế, trở thành một trong bát đại Thiết mạo tử vương của nhà Thanh. Tổng cộng truyền thừa qua 10 thế hệ, có 9 vị Dự Thân vương và 5 vị Tín Quận vương.

Ý nghĩa phong hiệu

Phong hiệu ["Dự"] của Đa Đạc, Mãn văn là 「erke」, âm dịch là “Ngạch Nhĩ Khách” (额尔克), ý là "Hùng tráng", "Kiên cường". Về sau phong hiệu đổi thành ["Tín"], Mãn văn là 「akdun」, ý là "Cường tráng", "Thành thật".

Chi hệ

Đa Đạc có tổng cộng 8 người con trai, ngoại trừ trưởng tử Châu Lan, tam tử Ba Khắc Đồ tuyệt tự, còn lại 6 chi mạch (phòng) truyền thừa xuống:

  • Tứ phòng Sát Ni, nguyên được phong Bối lặc, bị cách tước vào thời Khang Hi, hậu duệ trở thành Nhàn tản Tông thất.
  • Ngũ phòng Đa Nhĩ Bác, nguyên là con thừa tự của Duệ Trung Thân vương Đa Nhĩ Cổn, sau vì Đa Nhĩ Cổn bị hoạch tội mà cách tước quy tông. Trước khi Đa Nhĩ Cổn được sửa lại án sai vào năm Càn Long thứ 43 (1778), hậu duệ của Đa Nhĩ Bác từng trở thành Đại tông của Dự vương phủ một lần, chính là Tín Quận vương (Duệ Khác Thân vương) Như Tùng. Đến năm 1778 Càn Long Đế giải oan cho Đa Nhĩ Cổn, hậu duệ của Đa Nhĩ Bác khôi phục thân phận nối dõi của Duệ vương phủ, thoát khỏi tông chi của Dự vương phủ. Những cũng vì Như Tùng từng thừa kế đại tông của Dự vương phủ một lần mà quan hệ giữa hai bên đặc biệt mâu thuẫn.
  • Lục phòng Trát Khắc Đồ, hậu duệ trở thành Nhàn tản Tông thất.
  • Thất phòng Đổng Ngạch, một thời gian ngắn kế thừa Đại tông, sau lại khôi phục thân phận Tiểu tông của Dự vương phủ. Đến sau thời Càn Long thì hậu duệ trở thành Nhàn tản.
  • Bát phòng Phí Dương Cổ, nguyên được phong Phụng ân Phụ quốc công, bị cách tước vào thời Khang Hi, hậu duệ phần lớn đều thành Nhàn tản. Tuy nhiên con trai thứ năm của ông là Chiêm Bố bị Càn Long phái đến Thịnh Kinh coi sóc Tam lăng, được ban một chức Phụng ân Tướng quân, được thế tập võng thế, trở thành một Tiểu tông.

Đại tông do thứ tử Đa Ni kế thừa, thất tử Đổng Ngạch từng tập tước đại tông, sau đó hậu duệ cũng trở thành Nhàn tản Tông thất.

Địa vị

Đa Đạc là đích tử nhỏ tuổi nhất của Thái Tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích, dưới sự ảnh hưởng của theo chế độ "con út thừa kế" trước khi nhập quan, trên thực tế lại được Nỗ Nhĩ Cáp Xích để lại Tá lĩnh sau khi qua đời, vì vậy địa vị của Đa Đạc không hề tầm thường. Cũng chính vì như vậy, sau khi Hoàng Thái Cực kế vị, thực lực và địa vị của Dự vương phủ luôn bị Hoàng Đế làm cho suy yếu, cho dù là thời kỳ Duệ Thân vương Đa Nhĩ Cổn chấp chính thì cũng chỉ là giữ vững được lực lượng của Dự vương phủ, cũng không có tăng thêm. Sau triều Thuận Trị, Duệ vương phủ và Dự vương phủ bị buộc lại với nhau, thực lực lại càng thêm suy yếu, trở thành Kỳ phân đầu tiên có Hoàng tử phong vương phân vào. Tình huống này đến năm 1778, Đa Nhĩ Cổn được Càn Long Đế sửa lại án sai thì có giảm bớt, tuy nhiên Kỳ quyền lúc đó của Dự vương phủ cũng đã không còn nhiều.

Kỳ tịch

Kỳ tịch của một mạch Dự vương phủ biến động khá lớn, liên quan đến những lần đổi Kỳ thời Thanh sơ. Đa Đạc là đích tử nhỏ tuổi nhất của Thái Tổ Nỗ Nhĩ Cáp Xích, nhận được 15 Tá lĩnh (một nửa Kỳ) của Tương Hoàng Kỳ do đích thân Thái Tổ thống lĩnh, trở thành "Tiểu Kỳ chủ" của Tương Hoàng kỳ. Đây cũng là trường hợp duy nhất Tương Hoàng kỳ có Kỳ chủ không phải là Đại Hãn (Hoàng Đế). Căn cứ vào chế độ con út kế thừa trước khi nhập quan, sau khi Thái Tổ qua đời, Đa Đạc được nhận hoàn chỉnh 30 Tá lĩnh của Tương Hoàng kỳ, trở thành Đại Kỳ chủ thống lĩnh toàn bộ Tương Hoàng kỳ.

Thái Tông lên ngôi, tiến hành đổi Kỳ lần đầu tiên, đổi hai kỳ Bạch - Hoàng cho nhau, Đa Đạc trở thành Đại Kỳ chủ của Chính Bạch kỳ. Sau khi Thái Tông mất, Đa Nhĩ Cổn tiến hành cải biên Lưỡng Bạch kỳ, Đa Đạc và A Tế Cách cùng chia nhau Tương Bạch kỳ. Đa Đạc trở thành Đại kỳ chủ của Tương Bạch kỳ, A Tế Cách là Tiểu Kỳ chủ.

Lần cuối cùng đồi Kỳ chính là sau khi Đa Đạc qua đời, Đa Nhĩ Cổn đem Đa Ni nhập vào Chính Lam kỳ. Vì vậy, một mạch Dự vương phủ thuộc về Chính Lam kỳ.

Cụ thể, một chi Dự Thân vương chiếm giữ Chính Lam kỳ Đệ tam tộc và Đệ tứ tộc, trong đó tứ phòng Sát Ni, ngũ phòng Đa Nhĩ Bác, lục phòng Trát Khắc Độ, và thất phòng Đổng Ngạch thuộc Đệ tam tộc, còn lại Nhị phòng Đa Ni và bát phòng Phí Dương Cổ thuộc Đệ tứ tộc.

Danh sĩ

Có tiếng nhất trong Dự vương phủ đều là những Thân vương thường xuyên lãnh binh thời Thanh sơ. Ngoài ra, tương đối nổi danh có ba chi "thứ lưu"[1], là Khoa cử Thế gia.

Lân Thư (麟书), tự Hậu Phủ (厚甫), hiệu Chi Am (芝葊), là con trai của Viên ngoại lang Thiện Tuần (善循) - con trai thứ tư của Dĩ cách Dự Thân vương Dụ Phong, năm Đạo Quang thứ 29 (1849) đậu Văn Cử nhân, năm Hàm Phong thứ 3 (1853) đậu Văn Tiến sĩ. Về sau lần lượt đảm nhiệm Nội các Học sĩ, Lý phiên viện Hữu Thị lang, Phó Đô thống Hán quân Tương Lam kỳ, Hộ bộ Tả Thị lang. Đến thời Quang Tự thì làm quan đến Lại bộ Thượng thư, Võ Anh điện Đại học sĩ, Đô thống Mông Cổ Chính Hồng kỳ. Sau khi qua đời được truy thụy "Văn Thuận" (文慎), được đưa vào thờ trong Hiền Lương từ.

Côn Cương (崑岡), hiệu Tiêu Phong (筱峰), là hậu duệ của Thị vệ Thường Hách (常赫) - con trai thứ chín của Sát Ni - con trai thứ tư của Đa Đạc, năm Hàm Phong thứ 4 (1854) đậu Văn Cử nhân, năm Đồng Trị nguyên niên (1862) đậu Văn Tiến sĩ. Về sau lần lượt đảm nhiệm Nội các Học sĩ, Binh bộ Tả Thị lang, Tả đô Ngự sử, làm đến Công bộ Thượng thư, Văn Uyên các Đại học sĩ. Sau khi qua đời được truy thụy "Văn Đạt" (文达).

Một nhà Thụ Khánh (受庆). Thụ Khánh là hậu duệ của Phụng ân Tướng quân Hoa Linh (华龄) - con trai thứ hai của Dự Khác Thân vương Đức Chiêu, năm Đạo Quang thứ 2 (1822) đậu Văn Tiến sĩ, làm quan đến Phó đô Ngự sử. Thụ Khánh có 3 con trai đều nhờ Khoa cử ra làm quan:

  1. Khuê Cảnh (奎景), đậu Văn Cử nhân năm Hàm Phong thứ 2 (1852), làm quan đến Chủ sự.
  2. Khuê Nhuận (奎润), đậu Văn Tiến sĩ vào năm Đồng Trị thứ 2 (1863), làm quan đến Thượng thư.
    • Con trai: Bảo Minh (宝铭), đậu Văn Tiến sĩ năm Quang Tự thứ 21 (1894), làm quan đến Thủ hộ Đại thần.
  3. Khuê Úc (奎郁), đậu Văn Tiến sĩ năm Đồng Trị thứ 13 (1874), làm quan đến Thị độc Học sĩ.

Một nhà sáu người đều đề bảng Khoa cử, trong đó 5 Tiến sĩ, 1 Cử nhân, có thể nói là gia đình khoa cử mạnh nhất trong Tông thất nhà Thanh.

Khoa cử

Hậu duệ của Đa Đạc, trong suốt triều Thanh, có tất cả 11 Văn Tiến sĩ, 4 Văn Cử nhân, 4 Phiên dịch Cử nhân, còn có một đặc ân Cử nhân. Là một tông chi có truyền thống Khoa cử tương đối nổi danh trong Tông thất. Một chi của Đa Ni có 8 Văn Tiến sĩ, 2 Văn Cử nhân, 3 Phiên dịch Cử nhân. Hậu duệ của Sát Ni có 1 Văn Tiến sĩ, 1 Văn Cử nhân. Hậu duệ của Đổng Ngạch có 2 Văn Tiến sĩ, 1 Văn Cử nhân. Hậu duệ của Phí Dương Cổ có 1 Phiên dịch Cử nhân.

Những hậu duệ Dự vương phủ xuất thân Khoa cử
Chi hệTênTự bốiHọc vịKhoa thiLàm quan đến
TriềuNăm
Đa NiLân Thư (麟书)DịchVăn Tiến sĩHàm Phong1853Võ Anh điện Đại học sĩ
Thạc Tế (硕济)Đồng Trị1871Chủ sự
Bảo Thanh (保清)Đạo Quang1833Thị giảng Học sĩ
Thụ Khánh (受庆)Đạo Quang1822Phó đô Ngự sử
Khuê Úc (奎郁)TáiĐồng Trị1874Thị độc Học sĩ
Khuê Nhuận (奎润)Đồng Trị1863Thượng thư
Bảo Hi (宝熙)PhổĐồng Trị1878Lễ bộ Thị lang
Bảo Minh (宝铭)Quang Tự1894Thủ hộ Đại thần
Sùng Phổ (崇溥)TáiVăn Cử nhânĐồng Trị1867Viên ngoại lang
Khuê Cảnh (奎景)Hàm Phong1852Chủ sự
Thuần Quý (纯贵)MiênPhiên dịch Cử nhânGia Khánh1804Ngự sử
Hàm Đình (咸廷)Gia Khánh1822Chủ sự
Phú Xương (富昌)DịchGia Khánh1802Bút thiếp thức
Sát NiCôn Cương (崑岡)DịchVăn Tiến sĩĐồng Trị1862Văn Uyên các Đại học sĩ
Cát Luân (吉纶)VĩnhVăn Cử nhânGia Khánh1816Không xuất sĩ làm quan
Đổng NgạchAnh Thụ (英绶)DịchVăn Tiến sĩĐạo Quang1835Đạo viên
Hải Minh (海明)PhổQuang Tự1894Hậu bổ Chủ sự
Kinh Vũ Lặc (经武勒)DịchVăn Cử nhânQuang Tự1882Kinh lịch
Phí Dương CổTự Xương (绪昌)VĩnhPhiên dịch Cử nhânGia Khánh1816Không xuất sĩ làm quan

Phủ đệ

Dự vương phủ nằm ở một phố nhỏ phía Đông. Cổng chính rộng 5 gian, đại điện 5 gian, đông - tây mỗi bên có 5 gian đối xứng nhau, hậu điện 3 gian, phòng ngủ 7 gian. Ngoài ra đông - tây còn có 2 tiểu viện. Tổng thể mà nói thì diện tích tương đối nhỏ. Năm 1916, hậu duệ Dự vương phủ đem phủ đệ cùng với đất đai đều bán cho tập đoàn dầu mỏ The Rockefeller Foundation (洛克菲勒基金会) của Mỹ. Về sau, tại đây đã được xây dựng bệnh viện Hiệp Hòa. Hiện tại, chỉ còn hai tượng sư tử bằng đá trước cổng.

Liên quan